Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn, xuất thân hoàng tộc, là cháu gọi Trần Thái Tông Trần Cảnh là chú ruột. Ngay từ nhỏ, Quốc Tuấn đã tỏ rõ tư chất thông minh hơn người, đọc rộng hiểu nhiều, tài kiêm văn võ. Cha của Quốc Tuấn là Trần Liễu, trước khi mất dặn ông phải bằng mọi giá đoạt lấy thiên hạ, rửa mối nhục cho nhà (vợ Trần Liễu đang mang thai nhưng bị dâng cho Trần Cảnh).
Tuy thế, Quốc Tuấn vẫn một lòng trung nghĩa hướng về nhà Trần. Ông chủ động gạt bỏ ân oán cũ, làm hoà với Trần Quang Khải (con Trần Thái Tông), thậm chí ông đã từ mặt con trai khi biết Quốc Tảng có ý muốn báo thù.
Thời đại của Trần Quốc Tuấn đầy biến động. Vó ngựa quân Mông Cổ đã tung hoành cả thế giới, gieo rắc bao nỗi sợ hãi cho cả châu Á, châu Âu. Người Mông Cổ quyết ý tiến đánh Đại Việt, mở thông cửa ngõ vào Đông Nam Á.
Cả ba lần vào các năm 1257, 1285 và 1287, Trần Quốc Tuấn đều góp mặt trong cuộc chiến tranh Mông Cổ – Đại Việt. Hai lần sau, ông chính là tổng chỉ huy tối cao, thống lĩnh toàn quân. Trong suốt 30 năm chiến loạn ấy, dù đã nuốt chửng cả Trung Hoa, diệt nhà Nam Tống, lập ra triều Nguyên nhưng người Mông Cổ vẫn không sao đặt chân lên Đại Việt nổi. Ba cuộc tấn công, đợt sau dữ dội hơn đợt trước, đều thất bại ê chề.
Dưới sự chỉ huy của Trần Hưng Đạo, quân dân nhà Trần “lấy đoản binh chống lại trường trận”, dùng kế vườn không nhà trống, kiên cường kháng chiến lâu dài và đã lập nên kỳ tích trong lịch sử thế giới. Những trận chiến oanh liệt ở Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vân Đồn, Bạch Đằng, Đông Bộ Đầu… đều ghi dấu ấn không thể phai mờ của Trần Hưng Đạo.
Năm 1300, trước khi mất, khi vua Trần đến bên giường, Trần Hưng Đạo để lại di ngôn, cũng là lời tổng kết xác đáng nhất cho những cuộc kháng Mông Nguyên vĩ đại: “Vừa rồi Toa Ðô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Ðó là trời xui vậy. Ðại khái nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản chế trường là sự thường của binh pháp”.
Không chỉ là một binh gia xuất chúng, Quốc Tuấn cũng là một nhà chính trị tài ba. Ông có tầm nhìn sâu sắc về việc dưỡng sức dân, đào tạo hiền tài. Trong những năm chiến tranh, ông đã bồi dưỡng được một lớp nhân tài đủ sức phục vụ cho nước nhà như: Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Đỗ Hành, Trương Hán Siêu…
Trần Hưng Đạo cũng không chỉ biết hành quân, đánh trận, binh chinh thiên hạ mà còn rất giỏi văn chương, thơ phú. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là: “Hịch tướng sĩ”, “Binh thư yếu lược”, “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”…
Ông là bậc chính nhân quân tử, trung nghĩa kiên cường, giỏi thao lược binh pháp lại khéo trị nước, an bang. Quân Mông Cổ đánh khắp Á, Âu, làm cỏ biết bao vương quốc, kể cả là nhà Nam Tống ở Trung Nguyên nhưng chỉ vừa chạm đến cửa ngõ Việt Nam đã phải chịu khuất phục trước khí chất của Trần Hưng Đạo, của hào khí Đông A nhà Trần.
Với công trạng và đức độ to lớn ấy, người đời sau tôn phong ông làm bực thánh, gọi là “Đức Thánh Trần”. Từ những trang sử hào hùng, Trần Hưng Đạo đã đi vào thế giới tín ngưỡng, tâm linh của người Việt, được coi là bậc hộ quốc công thần muôn đời. Địa vị của ông cũng tương tự như Quan Vũ ở Trung Hoa, đều đã trở thành một biểu tượng của lòng trung dũng và nghĩa khí.